Truyền thuyết kể rằng, vào một ngày của tiết Trọng dương năm thứ 99, Hoa Đà dẫn đồ đệ của mình đến một quán rượu trong trấn để uống rượu. Lúc này, ông nhìn thấy vài cậu thiếu niên tranh nhau ăn cua, Hoa Đà cho rằng cua có tính lạnh, nếu họ ăn quá nhiều có thể ảnh hưởng tới sức khỏe, vì thế ông đã bước tới thuyết phục họ.
Tuy nhiên, đám thiếu niên trẻ nọ không những không nghe theo mà còn chế nhạo Hoa Đà là người tham lam. Vì lo sợ các cậu thanh niên có thể bị ảnh hưởng sức khỏe nghiêm trọng hơn, Hoa Đà bèn quay lại yêu cầu chủ quán rượu đừng bán cua cho nhóm thiếu niên này nữa, nhưng chủ quán không đồng ý, nên Hoa Đà đành phải ngồi xuống uống rượu với đồ đệ của mình và theo dõi tình hình.
Một giờ cứ thế trôi qua, trên trán mấy thiếu niên kia đột nhiên đổ mồ hôi hột, hai tay ôm bụng lăn lộn trên mặt đất kêu đau bụng. Chủ quán rượu sợ hãi hỏi đã xảy ra chuyện gì vậy, lúc này thiếu niên nghi cua có độc nên đã cầu xin chủ quán đi tìm đại phu đến. Hoa Đà thấy vậy liền chủ động nói mình là đại phu, có thể chữa khỏi bệnh, nhưng yêu cầu nhóm thiếu niên sau này phải tôn trọng người lớn tuổi và nghe theo lời khuyên của họ. Lúc này vì quá đau nên bọn họ liền đồng ý.
Hoa Đà bảo mấy thiếu niên đợi một lúc, rồi đi hái một ít cỏ có lá màu tím ở ngoài cửa, sau đó nhờ ông chủ sắc bát thuốc cho họ uống. Các thiếu niên uống xong thì không còn cảm thấy đau bụng nữa, cảm ơn Hoa Đà lần nữa rồi đi về nhà.
Sau đó, Hoa Đà làm viên hoàn, tán từ thân và lá của loại cỏ tím này. Khi chữa cho người bệnh, ông phát hiện loại thuốc này còn có tác dụng tán biểu, ích tỳ, tuyên phế, lợi khí, hoá đàm, chỉ khái giảm ho. Vì loại thảo dược này có màu tím, ăn vào trong bụng thấy rất thoải mái nên Hoa Đà đã đặt tên cho nó là “Tử thư” , sau này người ta gọi nó là “Tử tô” (tía tô).
Tía tô vị cay, tính ôn; quy kinh phế, tỳ vị. Có công dụng giải biểu tán hàn, hành khí hoà vị. Dùng để trị cảm mạo phong hàn, ho, nôn, phụ nữ mang thai buồn nôn, giải độc cua cá....Theo nghiên cứu y học hiện đại, tía tô có chứa geraniol, flavonoid, terpenoid, citronellol, v.v., có thể chống oxy hóa, hạ huyết áp, chống huyết khối, kháng khuẩn, v.v. Trên lâm sàng dùng để trị các bệnh lý uất ức, hô hấp mạn tính, tim mạch,...
Để lại SỐ ĐIỆN THOẠI , chúng tôi sẽ gọi điện tư vấn riêng cho bạn